Tìm
English
Thứ ba, 09/09/2025 - 8:59

Một số điểm mới quan trọng của Luật Nhà giáo
Luật Nhà giáo số 73/2025/QH15, được Quốc hội thông qua ngày 16/6/2025, đánh dấu một bước ngoặt lớn trong việc nâng cao vị thế và vai trò của người thầy trong xã hội. Đây là Luật chuyên ngành đầu tiên quy định đầy đủ về vị trí pháp lý, quyền, nghĩa vụ và các chính sách dành cho đội ngũ nhà giáo.

Luật Nhà giáo gồm 9 chương, 42 điều và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2026. Luật Nhà giáo là một văn bản toàn diện, không chỉ tập trung vào việc cải thiện chính sách tiền lương mà còn giải quyết một loạt các vấn đề quan trọng khác. Các quy định mới hứa hẹn sẽ tạo ra một môi trường làm việc công bằng, minh bạch, giúp nhà giáo yên tâm cống hiến và phát triển, từ đó góp phần nâng cao chất lượng giáo dục quốc dân. Dưới đây là một số điểm mới quan trọng của Luật mà mỗi nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục và người dân cần lưu tâm.

1. Vị thế pháp lý của Nhà giáo được nâng cao

Luật Nhà giáo lần này không chỉ đơn thuần là việc sửa đổi, bổ sung các quy định đã có, mà là việc xây dựng một văn bản pháp lý toàn diện, độc lập, riêng biệt.

Trước đây, các quy định về nhà giáo nằm rải rác trong các văn bản như Luật Giáo dục, Luật Viên chức, Luật Giáo dục đại học v.v. Điều này gây khó khăn trong việc áp dụng và thiếu tính hệ thống. Luật Nhà giáo ra đời đã tập hợp, chuẩn hóa và thống nhất các quy định, tạo thành một khung pháp lý hoàn chỉnh và xác lập vị trí pháp lý đầy đủ cho nhà giáo trong cả cơ sở giáo dục công lập và ngoài công lập.

2. Cơ chế chính sách tiền lương đột phá

Đây là điểm được kỳ vọng và quan tâm nhất. Luật đã thay đổi căn bản cách tiếp cận về tiền lương của nhà giáo:

Lương của nhà giáo được xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp: Đây là một trong những điểm đột phá nhất của Luật. Quy định này là cơ sở để Chính phủ xây dựng một bảng lương riêng cho nhà giáo, đảm bảo thu nhập của họ phản ánh đúng vị trí và đóng góp của nghề nghiệp này.

Luật cũng dành sự quan tâm đặc biệt đến đội ngũ nhà giáo mầm non và nhà giáo công tác tại các vùng khó khăn. Điểm c khoản 1 Điều 23 quy định “c) Nhà giáo cấp học mầm non; nhà giáo công tác ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; nhà giáo dạy trường chuyên biệt; nhà giáo thực hiện giáo dục hòa nhập; nhà giáo ở một số ngành, nghề đặc thù được hưởng chế độ tiền lương và phụ cấp cao hơn so với nhà giáo làm việc trong điều kiện bình thường”.

Ngoài ra, theo quy định của Luật, nhà giáo còn được hưởng thêm các khoản phụ cấp đặc thù, lưu động, ưu đãi nghề, trợ cấp theo tính chất công việc, theo vùng,… góp phần nâng cao thu nhập toàn diện.

3. Chính sách bảo vệ, hỗ trợ, thu hút nhân lực chất lượng cao

Luật Nhà giáo mở rộng và hợp nhất hệ thống chính sách hỗ trợ, trong đó nhấn mạnh: Hỗ trợ nhà ở công vụ hoặc tiền thuê nhà cho nhà giáo công tác ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn,… Hỗ trợ chăm sóc sức khỏe định kỳ, chăm sóc sức khỏe nghề nghiệp; Hỗ trợ đào tạo – bồi dưỡng; Hỗ trợ thanh toán tiền tàu xe trong thời gian làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.

 Ưu tiên trong tuyển dụng, tiếp nhận đối với nhà giáo công tác tại vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; Thu hút người có trình độ cao, người có tài năng, người có năng khiếu đặc biệt, người có kỹ năng nghề cao tham gia giảng dạy, nhất là trong một số lĩnh vực trọng yếu, thiết yếu theo nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội.

Luật Nhà giáo còn quy định 02 chính sách nghỉ hưu đặc thù, gồm: giáo viên mầm non có nguyện vọng có thể được nghỉ hưu sớm hơn tuổi quy định.“2. Nhà giáo trong cơ sở giáo dục mầm non nếu có nguyện vọng thì có thể nghỉ hưu ở tuổi thấp hơn tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện bình thường nhưng không quá 05 tuổi. Trường hợp có đủ 15 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên thì không giảm tỷ lệ phần trăm hương lương hưu do việc nghỉ hưu trước tuổi. (Khoản 2 Điều 26).

Giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ hoặc nhà giáo làm việc trong lĩnh vực đặc thù được nghỉ hưu ở tuổi cao hơn, cụ thể:

“3. Thời gian nghỉ hưu ở tuổi cao hơn được quy định như sau:

a) Không quá 05 tuổi đối với nhà giáo có trình độ tiến sĩ;

b) Không quá 07 tuổi đối với nhà giáo có chức danh phó giáo sư;

c) Không quá 10 tuổi đối với nhà giáo có chức danh giáo sư.” (Khoản 3 Điều 27).

4. Chức danh nghề nghiệp và Chuẩn nghề nghiệp Nhà giáo

Luật hợp nhất hai hệ thống tiêu chuẩn (chức danh nghề nghiệp và chuẩn nghề nghiệp) thành một hệ thống chức danh gắn với chuẩn năng lực nghề nghiệp, áp dụng thống nhất cho cả công lập và ngoài công lập.

Việc này nhằm nâng cao chất lượng, tạo mặt bằng chất lượng chung cho toàn bộ đội ngũ; Bảo đảm công bằng trong tiếp cận giáo dục chất lượng cho học sinh; Tăng tính minh bạch, dễ tiếp cận trong đánh giá, tuyển chọn và đào tạo nhà giáo.

Xây dựng bộ chuẩn nghề nghiệp: Luật yêu cầu Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng bộ chuẩn nghề nghiệp cho từng cấp học và trình độ đào tạo. Bộ chuẩn này là căn cứ để tuyển dụng, bố trí, đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng đối với nhà giáo; xây dựng và thực hiện chính sách phát triển đội ngũ nhà giáo.

5. Đạo đức nghề nghiệp và cơ chế bảo vệ uy tín nhà giáo

Lần đầu tiên, đạo đức nhà giáo được luật hóa với các quy tắc ứng xử cụ thể trong quan hệ với người học, đồng nghiệp, gia đình học sinh và xã hội.

Luật xác định trách nhiệm nêu gương là một phần không thể tách rời trong hoạt động nghề nghiệp của nhà giáo – thể hiện qua sự mẫu mực, liêm chính, tận tâm trong giảng dạy và ứng xử xã hội.

Luật quy định rõ quyền được tôn trọng, bảo vệ danh dự, nhân phẩm, các quyền dân sự khác và cơ chế xử lý nghiêm minh với các hành vi xúc phạm nhà giáo, đặc biệt cấm các cá nhân, tổ chức đăng tải, phát tán thông tin mang tính quy kết về trách nhiệm của nhà giáo khi chưa có kết luận của cơ quan có thẩm quyền.

Bên cạnh quyền được bảo vệ, nhà giáo cũng có trách nhiệm giữ gìn đạo đức nghề nghiệp.

6. Giao quyền chủ động cho ngành Giáo dục trong công tác tuyển dụng, sử dụng nhà giáo

Luật Nhà giáo giao quyền chủ động cho ngành Giáo dục trong tuyển dụng, sử dụng nhà giáo. Trong đó, phân cấp thẩm quyền tuyển dụng cho người đứng đầu cơ sở giáo dục đại học, cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập được tự chủ tuyển dụng nhà giáo. Luật giao thẩm quyền cho Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định về thẩm quyền tuyển dụng nhà giáo trong các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông, giáo dục thường xuyên.

Chính sách điều động, biệt phái, thuyên chuyển, dạy liên trường, liên cấp đối với nhà giáo trong các cơ sở giáo dục công lập được Luật quy định đầy đủ nhằm giải quyết bài toán thừa thiếu cục bộ nhà giáo các cấp học. Luật cũng quy định tuyển dụng nhà giáo phải gắn với thực hành sư phạm, đảm bảo đầu vào chất lượng, phù hợp từng cấp học và trình độ đào tạo.

Luật cũng quy định Bộ Giáo dục và Đào tạo là cơ quan chủ trì phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng chiến lược, đề án, kế hoạch phát triển, tổng biên chế đội ngũ nhà giáo thuộc thẩm quyền quản lý trình cấp có thẩm quyền quyết định; Phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đề xuất cơ quan có thẩm quyền phê duyệt số lượng biên chế nhà giáo trong các cơ sở giáo dục công lập.

Các quy định mới cho thấy Luật Nhà giáo không chỉ đơn thuần là sự nâng cấp chính sách, mà còn là một cuộc cách mạng trong nhận thức về vai trò và trách nhiệm của người thầy. Nó đòi hỏi mỗi nhà giáo phải không ngừng học hỏi, cống hiến, đồng thời tạo ra một môi trường làm việc công bằng, minh bạch để thu hút những người tài năng đến với nghề.

Luật Nhà giáo là một bước tiến quan trọng, khẳng định vị thế của nghề giáo trong xã hội. Đây không chỉ là công cụ pháp lý để bảo vệ và nâng cao đời sống của nhà giáo mà còn là động lực để mỗi người thầy nỗ lực hơn nữa, góp phần xây dựng một nền giáo dục hiện đại, nhân văn và chất lượng.

Văn phòng Học viện
Số lần đọc: 249
Các bài đã đăng

Danh sách liên kết